Lịch sử hình thành và phát triển nghề Thừa phát lại tại Việt Nam

  1. Chế định Thừa phát lại trước 1975

Chức danh Thừa phát lại bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký hòa ước ngày 05/6/1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam Kỳ, sau đó, là bản Hiệp ước ngày 06/6/1884, đặt Việt Nam trở thành một nước dưới quyền bảo hộ của Pháp[1].

Chế định Thừa phát lại được quy định trong các văn bản pháp luật như: Bộ Dân sự tố tụng Nam Việt ban hành năm 1910; Bộ Dân luật Trung năm 1936-1939; Bộ Hộ sự, Thương sự tố tụng Trung năm 1942; Bộ Dân luật Bắc năm 1931; Bộ Dân sự tố tụng Bắc năm 1917; Nghị định số 111 ngày 8/03/1949 của chính quyền Bảo Đại; Bộ luật Dân sự, Thương sự tố tụng và Bộ luật Hình sự tố tụng của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu năm 1972.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, hệ thống cơ quan tư pháp mới được thiết lập trong cả nước, chế định Thừa phát lại tồn tại trước đó được duy trì và chịu sự quản lý của Ban Công lại thuộc Phòng Giám đốc hộ vụ của Bộ Tư pháp.

Đến ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 13 quy định về tổ chức của tòa án và các ngạch thẩm phán; trong đó, khoản 3, Điều 3 Sắc lệnh 13 quy định: “Ban Tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên, bao gồm các bản án, quyết định của tòa án”.

Ngày 19/7/1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của tòa án. Điều 3 của Sắc lệnh này quy định: Trong các thị xã, khu phố, Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án, ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh. Về thẩm quyền, trách nhiệm của Thừa phát lại trong thi hành án, Điều 1 của Sắc lệnh trên quy định: Các bản sao hoặc trích lục bản án do các phòng lục sự phát cho các đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các Tòa án hộ đều phải có thể thức thi hành, ấn định như sau: “Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý và biện lý kiểm sát việc thi hành án, cai trị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu… Như vậy, Sắc lệnh 130/SL ngày 19/7/1946 chính là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại trong chế độ mới.

Tại Miền Nam, mô hình Thừa phát lại đã tồn tại trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và dưới chế độ chính quyền Sài Gòn đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975.

Thừa phát lại là công lại làm việc theo triệu dụng của khách hàng khi có yêu cầu và theo đề nghị của Toà án trong phạm vi trách nhiệm được pháp luật quy định. Mục đích của công lại là nhằm phục vụ công lý, phục vụ hoạt động tư pháp và nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xã hội.

Thừa phát lại không phải là công chức tư pháp, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hoạt động không theo chế độ công vụ. Khác với các công chức tư pháp, Thừa phát lại thực hiện một số công việc theo yêu cầu của khách hàng hoặc theo đề nghị của Tòa án trong phạm vi trách nhiệm được pháp luật quy định. Tuy được quy định ở các văn bản pháp luật khác nhau với những tên gọi khác nhau như: Chưởng Tòa (Miền Bắc); Mõ Tòa (Miền Trung); Thừa phát lại (Miền Nam) nhưng đều thể hiện địa vị của một công lại giống chức danh “Huissier” trong hệ thống Tư pháp của Pháp được quy định trong Bộ Dân luật Pháp năm 1804 và Bộ Dân sự tố tụng Pháp năm 1807.

Nhìn chung, Thừa phát lại trong thời kỳ Pháp thuộc và dưới chính quyền Sài Gòn đều có nhiệm vụ:

– Thông báo tòa khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự tại tòa. Đây là các nhiệm vụ tại phiên toà.

– Tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, lập các vi bằng theo quy định của pháp luật, phát mại động sản hay bất động sản và trực tiếp thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Các nhiệm vụ này được thực hiện bên ngoài phiên toà.

Về tổ chức, Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao của khách hàng theo biểu giá quy định. Khác với luật sư, Thừa phát lại không có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ nếu được yêu cầu nếu không có lý do chính đáng. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những công chức có trách nhiệm như: Chưởng Lý, Biện Lý, Thẩm Phán, Lục Sự. Hoạt động của Thừa phát lại được tổ chức thành văn phòng.

Thời kỳ đầu, tại Sài Gòn chỉ có 5 văn phòng Thừa phát lại (từ năm 1950 – 1968), đến năm 1974 tăng lên 14 văn phòng. Các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Bình Dương, Biên Hòa mỗi tỉnh có một văn phòng Thừa phát lại, mỗi văn phòng có một thư ký trưởng (tập sự). Tổng số có 18 Thừa phát lại và Thư ký trưởng hữu thệ, các thư ký trưởng này được thay thế Thừa phát lại thực thụ để thực hiện các hành vi tố tụng theo luật quy định.

Tổng số Thừa phát lại trước năm 1975 gồm có 36 Thừa phát lại, trong đó có 18 Thừa phát lại thực thụ và 18 thư ký trưởng. Ở các tỉnh còn lại, công việc Thừa phát lại được giao cho các cảnh sát trưởng hoặc phó cảnh sát trưởng (Trưởng ty cảnh sát) hoặc các Quận trưởng tạm thời kiêm nhiệm do Nghị định của Tổng trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và các viên chức này được thu lệ phí như Thừa phát lại[2].

  1. Chế định Thừa phát lại hiện nay

Sau một thời gian gián đoạn, Thừa phát lại bắt đầu được triển khai thực hiện theo tinh thần thực hiện chiến lược cải cách tư pháp. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp xác định:“Nghiên cứu việc xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp”. Chủ trương xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị:“Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”, mà cụ thể hơn là “nghiên cứu chế định Thừa phát lại: trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở đó tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.

Ngày 14/11/2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó, giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phương. Ngày 24/7/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh.

Sau thời gian thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh, với những thành công bước đầu, ngày 23/11/2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 giao cho Chính phủ tiếp tục triển khai việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến hết 31/12/2015. Như vậy, bước đầu hệ thống Thừa phát lại đã dần được hình thành ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phân bổ đều trên cả nước.

Ngày 26 tháng 11 năm 2015, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại. Nghị quyết đã ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, đồng thời, quyết định chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.

Ngày 08/01/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/02/2020, thay thế Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP Hồ Chí Minh và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP.